Tình hình kinh tế- xã hội tỉnh Bắc Giang năm 2018

|
Lượt xem:
Chế độ ban đêm OFF
Cỡ chữ: A- A A+
Đọc bài viết

Năm 2018, mặc dù tiếp tục chịu ảnh hưởng của cuộc chiến tranh thương mại toàn cầu và tình hình bất ổn của nền kinh tế thế giới nhưng tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Giang vẫn đạt được những kết quả quan trọng và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực như: Tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) ước đạt 15,96%, tăng cao nhất từ trước đến nay. Nông nghiệp tăng trưởng vượt bậc, công nghiệp phát triển nhanh cả về quy mô và giá trị, nên đã góp phần chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động; hoạt động thương mại, dịch vụ phát triển đa dạng, du lịch tạo bước đột phá,… Tuy nhiên nền kinh tế của tỉnh vẫn gặp không ít khó khăn do: Sản phẩm nông nghiệp sản xuất ra vẫn chưa có được thị trường tiêu thụ ổn định; ngành công nghiệp tuy đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá, song chưa thật sự vững chắc do tình trạng máy móc, thiết bị của đa số các doanh nghiệp trên địa bàn chưa đạt trình độ công nghệ cao, dẫn đến chi phí nguyên vật liệu đầu vào tăng;… Kết quả đạt được của các ngành, các lĩnh vực được thể hiện cụ thể như sau:

I. TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG TỔNG SẢN PHẨM NỘI TỈNH

Tổng sản phẩm nội tỉnh (GRDP) (theo giá so sánh 2010) năm 2018 ước tính đạt 64.667,05 tỷ đồng, tăng 15,96% so với năm 2017. Trong đó nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 6,48%; Công nghiệp và xây dựng tăng 24,4%; Dịch vụ tăng 6,52%; Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 7,73%.

Đối với khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản tăng 6,48%, khu vực sản xuất công nghiệp và xây dựng có mức tăng 24,4% so với cùng kỳ. Trong đó ngành công nghiệp tăng 27,76%; tăng chủ yếu ở ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (tăng 28,52% so với cùng kỳ) nguyên nhân do một số ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong toàn ngành công nghiệp trên địa bàn như: Ngành sản xuất trang phục, ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy tính,... trong kỳ đã duy trì được sản xuất, ký kết được các đơn hàng sản xuất ngay từ đầu năm nên hoạt động sản xuất được ổn định và có mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ.

Khu vực dịch vụ tăng 6,52%; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,72%; hoạt động kinh doanh bất động sản được cải thiện hơn với mức tăng 3,38%.

Quy mô nền kinh tế tỉnh Bắc Giang năm 2018 theo giá hiện hành ước đạt 88.259,1 tỷ đồng; GDP bình quân đầu người ước tính đạt 52,1 triệu đồng, tương đương 2.230 USD. Về cơ cấu nền kinh tế năm nay, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 18,87%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 51,41%; khu vực dịch vụ chiếm 27,31%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 2,41%.

II. SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP, LÂM NGHIỆP VÀ THỦY SẢN

1. Sản xuất nông nghiệp

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2018 diễn ra trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi; tình hình sâu bệnh ít, công tác thủy lợi được quan tâm chỉ đạo tích cực nên năng suất và sản lượng các loại cây trồng chính đều xấp xỉ bằng và tăng so với cùng kỳ năm trước. Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2018 theo giá so sánh 2010 ước tính đạt 19.818,3 tỷ đồng, tăng 6,45% so với năm 2017.

2. Sản xuất lâm nghiệp

Sản xuất lâm nghiệp quý IV và cả năm 2018 cơ bản thuận lợi, nhìn chung các chỉ tiêu trồng và phát triển rừng đều đạt kết quả khá so với cùng kỳ và kế hoạch; chất lượng rừng trồng tăng cao, cơ cấu rừng trồng đã chuyển mạnh từ trồng rừng phòng hộ sang trồng rừng sản xuất.

3. Sản xuất thủy sản

Trong quý IV cũng như cả năm 2018, ngành thủy sản đạt được kết quả khá, cụ thể: Quý IV, tổng sản lượng thủy sản khai thác ước đạt 11.904 tấn, tăng 7,9% so với cùng kỳ. Tính chung cả năm 2018, tổng sản lượng thủy sản ước tính đạt 43.701,8 tấn, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước.

III. SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP

Tình hình sản xuất công nghiệp tháng 12, quý IV và cả năm 2018 trên địa bàn tỉnh cơ bản phát triển ổn định và đạt mức tăng trưởng khá. Riêng quý IV, chỉ số sản xuất công nghiệp ước đạt 137,44% so với cùng quý năm trước. Tính chung cả năm 2018, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp bằng 130,15% so với năm 2017.

Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010) năm 2018 ước đạt 133.813,1 tỷ đồng, tăng 30,82%  so với cùng kỳ; phần tăng trưởng chủ yếu là do một số ngành chiếm tỷ trọng lớn như ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước đạt 130.526,2 tỷ đồng, tăng 31,18%; ngành sản xuất, phân phối điện ước đạt 1.775,8 tỷ đồng, tăng 21,2%,… Trong năm 2018, trên địa bàn tỉnh, một số doanh nghiệp tiếp tục mở rộng và sản xuất đúng công suất đã làm tăng sản lượng cũng như giá trị sản xuất; khu vực kinh tế cá thể tiếp tục phát triển ổn định đã đóng góp vào tốc độ tăng của ngành công nghiệp.

IV. THƯƠNG MẠI, DỊCH VỤ VÀ CHỈ SỐ GIÁ

1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Tổng mức bán lẻ tháng 12/2018 ước đạt 2.009,7 tỷ đồng, tăng 2,76% so với tháng trước và tăng 13,22% so với cùng kỳ, trong đó nhóm lương thực, thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn nhất ước đạt 585,8 tỷ đồng, tăng 1,96% so với tháng trước và tăng 6,96% so với cùng kỳ. Tổng mức bán lẻ quý IV/2018 ước đạt 5.866,1 tỷ đồng, tăng 6,28% so với quý trước và tăng 13,11% so với cùng kỳ. Tính chung cả năm 2018, tổng mức bán lẻ ước đạt 22.165,8 tỷ đồng, tăng 12,69% so với năm 2017. Có được mức tăng trưởng như trên là do sức mua của người dân vẫn duy trì ở mức ổn định, thu nhập của người lao động tăng nên tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng tăng so với cùng kỳ năm trước.

Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành tháng 12 ước đạt 138,7 tỷ đồng, tăng 8,9% so với cùng kỳ. Tính chung cả năm ước đạt 1.597,2 tỷ đồng, tăng 8,6% so với cùng kỳ.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng tăng so với cùng kỳ năm trước.
Ảnh minh họa: BGP/ Huyền Giang

2. Vận tải - Bưu chính viễn thông

Doanh thu vận tải, kho bãi quý IV/2018 ước đạt 1.160,2 tỷ đồng, tăng 10,1% so với quý trước và tăng 14,69% so với cùng quý năm trước. Nâng tổng doanh thu vận tải, kho bãi năm 2018 ước đạt 4.290,4 tỷ đồng, tăng 13,8% so với cùng kỳ.

Năm 2018, kết quả tổng doanh thu Bưu chính, viễn thông và internet ước đạt 1.850 tỷ đồng, bằng 106,5% so với cùng kỳ (trong đó: Doanh thu bưu chính ước đạt 230 tỷ đồng; viễn thông, internet ước đạt 1.620 tỷ đồng). Nộp ngân sách nhà nước ước đạt 80 tỷ đồng.

3. Chỉ số giá

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2018 giảm 0,76% so với tháng trước, trong đó khu vực thành thị giảm 0,75%, khu vực nông thôn giảm 0,76%. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ, 04 nhóm có chỉ số giá tăng: Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,19%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 7,64% so với tháng trước; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,74%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,12% so với tháng trước. CPI quý IV giảm 0,53% so với cùng quý năm trước, cùng với các chính sách kiềm chế lạm phát nên chỉ số giá tiêu dùng bình quân 12 tháng năm 2018 tăng 3,99% so với bình quân cùng kỳ năm 2017 và đạt mục tiêu đề ra kiểm soát lạm phát dưới 4%.

V. THỰC HIỆN VỐN ĐẦU TƯ

Tình hình thực hiện vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh Bắc Giang đạt mức tăng trưởng khá, do giá nguyên vật liệu tương đối ổn định, nguồn vốn vay ưu đãi được giải ngân kịp thời, các chính sách thu hút vốn đầu tư được được đẩy mạnh. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện quý IV ước đạt 14.317,2 tỷ đồng, tăng 20,06% so với cùng quý năm trước. Tính chung cả năm 2018 theo giá hiện hành ước tính đạt 43.737,1 tỷ đồng, tăng 16,93% so với năm 2017...

VI. TÀI CHÍNH, NGÂN HÀNG

Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước thực hiện cả năm 8961,4 tỷ đồng bằng 140,7% kế hoạch dự toán năm và bằng 137,5% so với cùng kỳ; trong đó một số lĩnh vực thu đạt khá như: Thuế bảo vệ môi trường cả năm ước đạt 270,0 tỷ đồng, bằng 122,7% kế hoạch dự toán năm và bằng 113,1% so với cùng kỳ; thu tiền sử dụng đất cả năm ước đạt 4.454,0 tỷ đồng, bằng 233,8% so với dự toán năm và bằng 181% so với cùng kỳ; thuế thu nhập cá nhân cả năm ước đạt 440 tỷ đồng, bằng 120,5% dự toán và bằng 142,3% so với cùng kỳ. Trong tháng, tình hình chi ngân sách của địa phương cơ bản đã đảm bảo được các nhiệm vụ chi theo dự toán được giao.

Các ngân hàng Thương mại thực hiện nghiêm quy định về mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi.
Ảnh minh họa: BGP/ Huyền Giang

Trong năm Ngân hàng Nhà nước đã điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, thận trọng, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm góp phần kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra.

VII. VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

Trong năm 2018, công tác quản lý văn hóa thông tin từng bước được tăng cường, các hoạt động văn hóa và du lịch luôn giữ được bản sắc và thiết thực hơn, hạn chế các hiện tượng vi phạm, tạo không khí vui tươi phấn khởi đến quần chung nhân dân, cơ bản đạt nhiều kết quả tích cực.

VIII. DÂN SỐ, LAO ĐỘNG, ĐỜI SỐNG DÂN CƯ VÀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI

Sơ bộ ước tính dân số trung bình của tỉnh Bắc Giang năm 2018 là 1.691.810 người (trong đó dân số khu vực thành thị 193.947 người, chiếm 11,46 %; dân số khu vực nông thôn 1.497.863 người chiếm 88,54%), tỷ số giới tính khi sinh nam/ nữ toàn tỉnh vẫn ở mức cao là 115 nam/100 nữ, giảm 0,2 điểm so với cùng kỳ.

Công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm được đẩy mạnh, năm 2018 toàn tỉnh tạo việc làm cho 29.610 người lao động, tăng 2,71% so với cùng kỳ; tuyển sinh và đạo tạo nghề cho khoảng 45.805 người, tăng 60,7% so với kế hoạch năm.

Nhìn chung năm 2018, đời sống dân cư trên địa bàn tỉnh cơ bản ổn định. Chế độ chính sách bảo đảm an sinh xã hội, chính sách đối với người có công tiếp tục được thực hiện đầy đủ, kịp thời.

IX. HOẠT ĐỘNG Y TẾ

Nhìn chung, trên địa bàn tỉnh, các bệnh truyền nhiễm đều giảm so với cùng kỳ năm 2017. Ngành Y tế tiếp tục tăng cường các biện pháp, giải pháp nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, chấn chỉnh công tác chuyển tuyến khám chữa bệnh BHYT, tổ chức các buổi khám chữa bệnh cho người nghèo tại các cơ sở y tế công lập.

Ngành Y tế tiếp tục tăng cường các biện pháp, giải pháp nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh. 
Ảnh minh họa: BGP/ Huyền Giang

X. CÔNG TÁC AN NINH CHÍNH TRỊ VÀ TRẬT TỰ XÃ HỘI

Trong năm, các ngành chức năng tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 88/NQ-CP, Chỉ thị số 12/CT- TTg, Kế hoạch số 40- KH/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy; Kế hoạch triển khai công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông năm 2018 của Ban ATGT tỉnh. Tổ chức chỉ đạo kiểm tra, rà soát các bến bãi, các phương tiện thủy nội địa, người lái phương tiện để làm tốt công tác quản lý… Thông qua công tác tuần tra, kiểm soát, các lực lượng chức năng đã phát hiện, lập biên bản xử lý 5.544 trường hợp vi phạm, tạm giữ 882 phương tiện các loại, tước có thời hạn 606 giấy phép lái xe, thu nộp Kho bạc Nhà nước 4,7 tỷ đồng.

Tính từ ngày 16/11/2018 đến 15/12/2018, toàn tỉnh xảy ra 34 vụ TNGT (tăng 23 người so với cùng kỳ); làm chết 22 người (tăng 19 người so với cùng kỳ); làm bị thương 19 người (tăng 12 người so với cùng kỳ). Tổng 12 tháng năm 2018 xảy ra 484 vụ tai nạn giao thông (tăng 297 vụ so với cùng kỳ năm trước); số người bị chết 246 người (tăng 163 người so với cùng kỳ năm trước); số người bị thương 382 người (tăng 223 người so với cùng kỳ năm trước).

Nhìn chung, tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội cơ bản ổn định và giữ vững. Tình hình vi phạm môi trường đã phát hiện và xử lý 15 vụ và xử phạt 62 triệu đồng, tính chung 12 tháng đã phát hiện và xử lý 371 vụ và xử phạt 2.633 triệu đồng./.

Trung bình (0 Bình chọn)