Tình hình kinh tế - xã hội tháng 12 và năm 2022 tỉnh Bắc Giang

|
Lượt xem:
Chế độ ban đêm OFF
Cỡ chữ: A- A A+
Đọc bài viết
Năm 2022, nền kinh tế trong nước gặp rất nhiều khó khăn, cùng với đó là vấn đề lạm phát tăng cao, biến động của giá xăng dầu trên thế giới, gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu làm cho chi phí sản xuất, nguyên vật liệu đầu vào tăng, gây áp lực lớn lên hoạt động sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội của cả nước nói chung và tỉnh Bắc Giang nói riêng. Trước khó khăn thách thức đó, với sự thống nhất cao trong lãnh, chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND và UBND tỉnh; cùng sự đoàn kết, quyết tâm, chủ động, sáng tạo, linh hoạt trong chỉ đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền các cấp; sự đồng thuận, tin tưởng, ủng hộ của toàn thể Nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, tình hình kinh tế xã hội đã đạt được những kết quả hết sức ấn tượng, nổi bật, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực; kinh tế của tỉnh có đà phục hồi mạnh mẽ, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) cả năm ước đạt 19,3%, cao nhất từ trước đến nay và đứng thứ 2 cả nước, trong đó công nghiệp - xây dựng tăng 26,65% (công nghiệp tăng 30,88%, xây dựng tăng 0,55%); dịch vụ tăng 7,49%; nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,97%,…

1. Tổng sản phẩm nội tỉnh (GRDP)

Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) năm 2022 tính theo giá so sánh ước đạt 103.409,6 tỷ đồng, tăng 19,3% so với năm trước, dẫn dắt tốc độ tăng trưởng chủ yếu ở khu vực công nghiệp và xây dựng (tăng 26,65%), cao hơn mức tăng 10,03% của cùng kỳ năm 2021, khu vực dịch vụ ước tăng 7,49%; khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản ước tăng 1,97%. Nhìn chung các khu vực kinh tế đều có mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm 2021.

Quy mô và cơ cấu tổng sản phẩm (GRDP) trên địa bàn tỉnh Bắc Giang năm 2022 theo giá hiện hành ước tính đạt 155.876 tỷ đồng. Cơ cấu nền kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, cụ thể: Khu vực, nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 14,9%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 62,3%; khu vực dịch vụ chiếm 20,7%, còn lại là thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 2,1%.

Ngành công nghiệp - xây dựng đã nhanh chóng hồi phục, lấy lại được đà tăng trưởng mạnh mẽ và là động lực chính cho tăng trưởng. Giá trị gia tăng ngành ước đạt 71.924 tỷ đồng (theo giá so sánh), tăng 26,65 %. Ngành dịch vụ phục hồi trở lại trong năm 2022, khi tỉnh đã kiểm soát chặt chẽ dịch bệnh, tỷ lệ tiêm vắc-xin cao đã ảnh hưởng tích cực đến tâm lý tiêu dùng của người dân, sức mua nhờ đó cũng tăng lên, điều này tác động đến doanh thu thương mại và dịch vụ, cụ thể: Giá trị gia tăng của ngành dịch vụ ước đạt 17.031,7 tỷ đồng (theo giá so sánh). Tốc độ phát triển ngành bán buôn, bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy đạt 114,98%; ngành vận tải kho bãi đạt 115,41%; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống đạt 123,83%;... Trong năm tình trạng khan hiếm hàng hóa không xảy ra, thị trường nhờ đó ổn định; hoạt động xúc tiến thương mại được chú trọng với nhiều cách làm sáng tạo, hiệu quả.

Đối với khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, nhờ triển khai đồng bộ, kịp thời nhiều giải pháp khắc phục khó khăn, hỗ trợ cho sản xuất, nên sản xuất nông nghiệp của tỉnh đạt kết quả toàn diện, nổi bật, khẳng định vững chắc vai trò là trụ đỡ của nền kinh tế. Giá trị gia tăng của ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản ước đạt 12.282,2 tỷ đồng, tăng 1,97% so với cùng kỳ.

2. Sản xuất công nghiệp

Ngành công nghiệp tiếp tục là ngành kinh tế trọng điểm, với vai trò là động lực cơ bản cho sự phát triển kinh tế của tỉnh. Công nghiệp tiếp tục là ngành có tốc độ phát triển cao nhất, đóng góp lớn nhất vào mức tăng trưởng chung của nền kinh tế. Trong đó, một số ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn trong định hướng chiến lược phát triển ngành công nghiệp của tỉnh đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao như các ngành thuộc công nghiệp chế biến chế tạo, tạo ra nguồn thu ngoại tệ lớn với giá trị xuất khẩu cao, đồng thời cũng đóng vai trò quan trọng trong chuỗi giá trị của cả nước trong lĩnh vực điện tử, dệt may,… Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 12/2022 bằng 96,05% so với tháng trước và bằng 102,28% so với cùng kỳ, cụ thể: Ngành khai khoáng có chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 12/2022 giảm 9,21% so với tháng trước và giảm 19,19% so với cùng kỳ. Ngành công nghiệp chế biến chế tạo bằng 96,04% so với tháng trước và tăng 2,42% so với cùng kỳ. Ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt ước chỉ số sản xuất bằng 98,22% so với tháng trước và bằng 105,76% so với cùng kỳ.

3. Sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản

Sản xuất nông nghiệp

Sản xuất nông nghiệp năm 2022 trong tỉnh Bắc Giang diễn ra trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi, các loại cây trồng chủ lực tiếp tục phát triển theo hướng sản xuất quy mô lớn, có sự hợp tác, liên kết theo chuỗi giá trị; tình hình sâu bệnh ít, công tác thủy lợi được quan tâm chỉ đạo tích cực, nên năng suất và sản lượng các loại cây trồng chính đều xấp xỉ bằng và tăng so với cùng kỳ năm trước, cụ thể: Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm cả năm đạt gần 154,4 nghìn ha, bằng 98,1% so với thực hiện năm trước (giảm trên 3 nghìn ha). Diện tích cây hàng năm giảm chủ yếu do sự chuyển đổi cây trồng, các loại cây trồng có năng suất cao dần thay thế các loại cây trồng kém hiệu quả kinh tế, ngoài ra một phần diện tích đất thuộc diện quy hoạch giải phóng mặt bằng của địa phương để mở rộng đường giao thông, cụm công nghiệp, khu dân cư... Cụ thể: Diện tích lúa cả năm ước đạt: trên 97,7 nghìn ha, bằng 98% so với cùng kỳ; diện tích cây ngô cả năm toàn tỉnh trồng ước đạt trên 10 nghìn ha, bằng 99,5% so với cùng kỳ…

Về chăn nuôi, công tác nắm bắt tình hình, kiểm soát phòng, chống dịch bệnh trên đàn vật nuôi được quan tâm, thực hiện hiệu quả; chăn nuôi có sự chuyển biến rõ nét, các mô hình sản xuất hiện đại theo chuỗi khép kín, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm được đẩy mạnh. Tỷ lệ chăn nuôi trang trại, gia trại và an toàn sinh học theo hướng VietGAP trong chăn nuôi tiếp tục tăng dần và phát huy được lợi thế; đến nay tổng đàn vật nuôi trên địa bàn tỉnh phát triển ổn định; đàn lợn phục hồi nhanh. Cụ thể: Đàn trâu toàn tỉnh ước đạt 31.100 con bằng 88,8% so với cùng kỳ. Tổng đàn lợn hiện có toàn tỉnh ước đạt 918.785 con, bằng 100,9% so với cùng kỳ năm 2021. Đàn gia cầm ổn định và tăng khá, ước tính toàn tỉnh hiện có 20.102 ngàn con bằng 100,9% so với cùng kỳ năm 2021.

Sản xuất lâm nghiệp

Sản xuất lâm nghiệp năm 2022 cơ bản thuận lợi, công tác trồng, chăm sóc và bảo vệ phát triển rừng được quan tâm; các chỉ tiêu trồng và phát triển rừng đều tương đương so với cùng kỳ và kế hoạch; chất lượng, cơ cấu rừng trồng đã chuyển mạnh từ trồng rừng phòng hộ sang trồng rừng sản xuất và trồng rừng bảo vệ môi trường sinh thái, chống xói mòn, rửa trôi, thoái hóa đất, từng bước làm giàu đất, tạo công ăn việc làm cho người dân, cụ thể: Trong năm đã trồng mới tập trung ước đạt 9.450 ha, bằng 101% so với cùng kỳ. Số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 50,25 nghìn cây, bằng 102,8% so với cùng kỳ. Sản lượng gỗ khai thác ước đạt trên 805,4 nghìn m3, bằng 100,5% so với thực hiện cùng kỳ năm 2021. Các cơ quan chức năng tiếp tục tăng cường công tác bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng. Số vụ cháy gây thiệt hại rừng là 03 vụ, giảm 08 vụ so với năm trước.

Sản xuất thủy sản

Năm 2022 hoạt động thủy sản, thời tiết có nhiều biến đổi, mùa đông đến muộn với các đợt rét sâu, tuy nhiên vẫn có nhiều thuận lợi trong nuôi trồng thủy sản, lượng mưa đảm bảo mặt nước cho các địa phương trong tỉnh đẩy mạnh hoạt động nuôi trồng trong năm, cụ thể: Tổng sản lượng thủy sản cả năm ước đạt 52.798 tấn, tăng 5,1% so với năm trước. Trong đó: sản lượng nuôi trồng cả năm ước đạt 49.603 tấn, tăng 5,8%; sản lượng khai thác cả năm ước đạt 3.195 tấn, giảm 4,3% so với cùng kỳ.

4. Thương mại, dịch vụ và chỉ số giá

Ngành Dịch vụ năm 2021 bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi tác động của dịch Covid – 19, song đến năm 2022 đã có sự hồi phục mạnh mẽ. Công tác quản lý thị trường, các hoạt động thương mại được cơ quan quan lý nhà nước quan tâm chỉ đạo chặt chẽ; không xảy ra tình trạng thiếu hàng, tăng giá đột biến gây bất ổn thị trường, cụ thể như sau:

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Các cơ sở sản xuất kinh doanh hoạt động bình thường trở lại sau năm bị ảnh hưởng của dịch bệnh, mức thu nhập của người lao động nhờ đó tăng lên làm sức mua trên thị trường tăng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 12 ước đạt 3.260 tỷ đồng, tăng 20,92% so với cùng kỳ, nâng tổng mức bán lẻ năm 2022 ước đạt 36.300 tỷ đồng, tăng 20,47% so với cùng kỳ, trong đó một số nhóm mặt hàng tăng khá như: Nhóm gỗ và vật liệu xây dựng đạt cao ước đạt 7.365 tỷ đồng, tăng 28,38%; nhóm vật phẩm, văn hóa, giáo dục ước đạt 366 tỷ đồng, tăng 24,58%; nhóm lương thực thực phẩm ước đạt 9.858 tỷ đồng, tăng 8,56%; nhóm xăng dầu các loại doanh thu tăng mạnh ước đạt 6.208 tỷ đồng, tăng 66,08% so với cùng kỳ.

Tháng 12/2022, nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình ước đạt 3.885 tỷ đồng, tăng 3,65% so với cùng kỳ.

Về vận tải

Nhìn chung hoạt động vận tải, kho bãi trong năm 2022 diễn ra trong điều kiện các hoạt động kinh tế phục hồi, nhu cầu vận tải hàng hóa cũng như đi lại của hành khách tăng cao. Doanh thu vận tải, kho bãi tháng 12/2022 ước đạt 662,1 tỷ đồng, tăng 24,07% so với cùng kỳ. Nâng tổng doanh thu vận tải, kho bãi năm 2022 ước đạt 7.007,6 tỷ đồng, tăng 37,67% so với cùng kỳ, cụ thể: Doanh thu vận tải hành khách ước đạt 1.210 tỷ đồng, tăng 56,21% so với cùng kỳ; khối lượng hành khách vận chuyển ước đạt 25.158 nghìn người, tăng 52,93% so với cùng kỳ. Doanh thu vận tải hàng hoá ước đạt 5.569,4 tỷ đồng, tăng 34,63% so với cùng kỳ; khối lượng hàng hoá vận chuyển ước thực hiện 51.686 nghìn tấn và tăng 31,88% so với cùng kỳ.

Về Bưu chính viễn thông

Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh đã phối hợp với các ngành liên quan luôn đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt phục vụ sự chỉ đạo điều hành của các cấp, các ngành, phục vụ tốt nhu cầu thông tin liên lạc của nhân dân; công tác thông tin tuyên truyền được thực hiện kịp thời, hiệu quả gắn với kiểm soát chặt chẽ các thông tin báo chí và thông tin trên mạng xã hội. Làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia thực hiện chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thông tin về tình hình kinh tế, xã hội. Việc phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) là khâu then chốt trong cải cách hành chính, xây dựng chính quyền điện tử, Bắc Giang luôn quan tâm phát triển cơ sở hạ tầng bưu chính, viễn thông, CNTT đồng bộ, rộng khắp. Đến nay, hạ tầng mạng viễn thông phủ sóng di động đến 100% trung tâm các xã, phường, thị trấn, 100% thôn, bản. Tổng doanh thu bưu chính, viễn thông năm 2022 ước đạt 2.670 tỷ đồng, nộp về ngân sách Nhà nước trên 68 tỷ đồng.

Tổng doanh thu bưu chính, viễn thông năm 2022 ước đạt 2.670 tỷ đồng.

Chỉ số giá

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2022 giảm 0,51% so với tháng trước, trong đó khu vực thành thị giảm 0,53%, khu vực nông thôn giảm 0,5%. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính, có 07 nhóm hàng tăng giá: Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,46%, tăng bởi nguyên phụ liệu đầu vào tăng và hết thời gian các đợt kích cầu giảm giá; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,33%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,01%; thuốc và thiết bị y tế tăng 0,06%;… Có 04 nhóm hàng giảm giá: Nhóm giao thông giảm 2,88%, giảm nhiều nhất do tác động các đợt điều chỉnh giảm giá xăng dầu; văn hóa giải trí và du lịch giảm 2,61%; bưu chính viễn thông giảm 1,19%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,46%. So với bình quân cùng kỳ, chỉ số giá tiêu dùng năm 2022 tăng 3,99%.

5. Đầu tư và xây dựng

Ngay từ đầu năm Tỉnh ủy, UBND tỉnh chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, hoàn thiện và đơn giản hóa các thủ tục hành chính. Thực hiện nhiều chính sách ưu đãi thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài; tiếp tục tập trung cao cho công tác cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh; các hoạt động hỗ trợ, phát triển doanh nghiệp phát huy hiệu quả. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2022 ước đạt 73.847,8 tỷ đồng, tăng 18,68% so với cùng kỳ năm, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 11.836,6 tỷ đồng, tăng 29,07% so với cùng kỳ; khu vực ngoài Nhà nước đạt 46.400,1 tỷ đồng, tăng 17,03% so với cùng kỳ; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 15.611,2 tỷ đồng, tăng 16,46% so với cùng kỳ. Năm 2022, tổng vốn thu hút đầu tư của tỉnh đạt được những kết quả đáng khích lệ. Toàn tỉnh thu hút được 518 dự án FDI với số vốn đăng ký sau điều chỉnh đạt 7.159,64 triệu USD; riêng trong quý 4 đã cấp mới cho 5 dự án FDI với số vốn đăng ký đạt 25,22 triệu USD, điều chỉnh tăng vốn cho 9 dự án với tổng số vốn đăng ký bổ sung đạt 133,03 triệu USD.

6. Tài chính, ngân hàng

Hoạt động tài chính

Công tác thu ngân sách được tỉnh quan tâm thực hiện đồng bộ và quyết liệt, đảm bảo thực hiện mục tiêu “vừa hỗ trợ người nộp thuế vượt qua khó khăn, vừa triển khai tốt nhiệm vụ thu ngân sách Nhà nước”. Trong bối cảnh nhiều khó khăn, song thu ngân sách Nhà nước vẫn vượt dự toán năm, cụ thể: Tổng thu Ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh năm 2022 ước đạt 18.175 tỷ đồng, vượt 27,5% dự toán đầu năm. Trong đó số thu nội địa ước đạt 16.409 tỷ đồng, tăng 30,7 % so với dự toán, bằng 81,1% so với cùng kỳ năm 2021. Thu tiền sử dụng đất ước đạt 9.616 tỷ đồng, tăng 36,8% so với dự toán, bằng 73,7% so với cùng kỳ.

Năm 2022, công tác quản lý mạng lưới hoạt động của ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh được thực hiện đúng quy định.

Chi ngân sách Nhà nước thực hiện theo đúng dự toán, tiết kiệm, hiệu quả và đảm bảo thực hiện “mục tiêu kép” vừa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chi phục vụ cho phát triển kinh tế của tỉnh, vừa đảm bảo an ninh quốc phòng, an sinh xã hội và các nhiệm vụ quan trọng cấp thiết của địa phương.

Hoạt động ngân hàng

Ngân hàng Nhà nước bám sát chủ trương của Quốc hội và Chính phủ, điều hành chủ động, linh hoạt, đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ như tỷ giá, lãi suất, tín dụng... Các ngân hàng trên địa bàn tỉnh đảm bảo cung ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu giao dịch tiền mặt hàng ngày và nhu cầu đột xuất trên địa bàn. Công tác kho quỹ bảo đảm an toàn, nhanh chóng, chính xác, hiệu quả, thực hiện đúng quy trình nghiệp vụ. Công tác quản lý mạng lưới hoạt động của ngân hàng thương mại trên địa bàn được thực hiện đúng quy định, cụ thể: Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng đồng Việt Nam thực hiện theo Quyết định 1813/QĐ-NHNN ngày 24/10/2022 là 5,5% (tăng 1% so với năm 2021). Đối với cho vay thỏa thuận, mức lãi suất ngắn hạn phổ biến của các ngân hàng thương mại Nhà nước trên địa bàn là 9,5-11%/năm (tăng 1-1,5%/năm), của các ngân hàng thương mại cổ phần khác là 10,5-12,5%/năm (tăng 2-2,5%/năm)…

Về hoạt động tín dụng, cho vay: Năm 2022 các ngân hàng thương mại và quỹ tín dụng nhân dân tiếp tục đẩy mạnh công tác huy động vốn, nguồn vốn huy động trên địa bàn tăng, ước đến 31/12/2022, vốn huy động trên địa bàn đạt 83.500 tỷ đồng, tăng 7.956 tỷ đồng (tăng 10,5%) so với 31/12/2021. Trong đó, nguồn tiền gửi của dân cư ước tăng 7.938 tỷ đồng (tăng 12,7%), tiền gửi tổ chức kinh tế tăng 18 tỷ đồng (tăng 0,1%);… Với các giải pháp tích cực của ngành ngân hàng, dư nợ tín dụng tăng, ước đến 31/12/2022 đạt 80.700 tỷ đồng, tăng 9.770 tỷ đồng và tăng 13,8% so với 31/12/2021…

7. Một số vấn đề xã hội

Công tác văn hóa, giáo dục

Năm 2022 tiếp tục là năm ngành Giáo dục và đào tạo tỉnh Bắc Giang tập trung nâng cao chất lượng dạy và học, đầu tư chuyển đổi số, số học sinh hoàn thành chương trình tiểu học, tốt nghiệp THCS, THPT đều đạt và vượt kế hoạch đề ra. Riêng năm học 2021- 2022, tỷ lệ tốt nghiệp THPT đạt 99,42%, điểm bình quân các môn thi xếp thứ 11/63 tỉnh, thành phố, tăng 11 bậc so với năm học trước. Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bắc Giang cũng là một trong 8 đơn vị vinh dự được nhận Cờ thi đua của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tỷ lệ kiên cố hóa toàn tỉnh đạt 93,8%, tăng 2,56% so cùng kỳ năm trước; có 710 trường chuẩn quốc gia mức độ 1, đạt 94,5% (tăng 0,8% so cùng kỳ); 152 trường chuẩn quốc gia mức độ 2 đạt 20,2% (tăng 4,4% cùng kỳ năm trước).

Hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch

Lĩnh vực văn hóa, trong tháng 12, một số hoạt động văn hóa chủ yếu diễn ra cụ thể như: Trung tâm văn hóa - điện ảnh tỉnh: Tham gia liên hoan trình diễn trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số Việt Nam khu vực phía Bắc, đạt nhiều giải cao và được Bộ Văn hóa thể thao và du lịch tặng Bằng khen;… Nhìn chung các hoạt động văn hóa diễn ra trong tháng 12 và cả năm được tỉnh quan tâm, tổ chức tốt đã góp phần động viên, khích lệ và làm phong phú thêm đời sống tinh thần của nhân dân trong tỉnh.

Lĩnh vực thể dục, thể thao và du lịch, các huyện, thành phố đã tổ chức tốt các giải thể dục thể thao; tỷ lệ người tập thể dục thể thao thường xuyên đạt gần 40%. Chuẩn bị tốt lực lượng và cử vận động viên tham dự Đại hội Thể thao toàn quốc; các điều kiện đăng cai tổ chức thi đấu môn Cầu lông tại Sea Games 31 (tháng 5/2022) được tỉnh quan tâm, chú trọng.

Thực hiện chủ trương số hoá của tỉnh, công tác tuyên truyền quảng bá xúc tiến du lịch thông qua hình thức trực tuyến và hệ thống truyền thông đại chúng được tăng cường . Cụ thể Trung tâm Thông tin và Xúc tiến Du lịch đã triển khai xây dựng, cập nhật thông tin và khai thác Cổng du lịch thông minh tại địa chỉ: https://mybacgiang.vn. Tổ chức tuần lễ du lịch mùa quả ngọt và khảo sát, tọa đàm “Liên kết phát triển sản phẩm du lịch nông nghiệp nông thôn tỉnh Bắc Giang” các tỉnh vùng Đông Bắc với thành phố Hồ Chí Minh, liên kết với tỉnh Hải Dương. Tổ chức Hội nghị xúc tiến giới thiệu điểm đến du lịch Bắc Giang và khảo sát, giới thiệu một số sản phẩm du lịch đặc trưng của tỉnh.

8. Dân số, lao động, đời sống dân cư

Dân số, lao động và việc làm

Sơ bộ ước tính dân số trung bình của tỉnh Bắc Giang năm 2022 là 1.890.925 người (trong đó dân số khu vực thành thị 368.688, chiếm 19,5%; dân số khu vực nông thôn 1.522.237, chiếm 80,5%), lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc ước đạt 965.143 người. Công tác giải quyết việc làm tiếp tục được đẩy mạnh.  Tỉnh cũng đã tổ chức các hoạt động tư vấn định hướng nghề nghiệp, giới thiệu việc làm năm 2022, tổ chức 82 phiên giao dịch việc làm định kỳ, lưu động, phiên giao dịch việc làm chuyên đề, phiên giao dịch việc làm online. Kết quả đã tư vấn, giới thiệu việc làm cho 20.300 lao động, có gần 1.800 lao động được giới thiệu việc làm trực tiếp cho các doanh nghiệp. Giải quyết 18.500 hồ sơ đề nghị hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp của người lao động. Toàn tỉnh tạo việc làm cho 33.600 lao động, trong đó: Việc làm trong nước 31.720 người (đạt 104% so với kế hoạch) và số người đi xuất khẩu lao động là 1.880 người (đạt 125,3% so với kế hoạch).

Đời sống dân cư và các chính sách xã hội

Đời sống dân cư trên địa bàn tỉnh cơ bản ổn định, không có hiện tượng thiếu đói giáp hạt xảy ra. Các hoạt động chi trả trợ cấp hàng tháng cho đối tượng hưởng chính sách ưu đãi người có công, giải quyết chế độ bảo hiểm y tế, mai táng phí, trợ cấp một lần được thực hiện kịp thời, đúng đối tượng, không để xảy ra các khiếu kiện phức tạp. Chương trình giảm nghèo được thực hiện đồng bộ, hiệu quả và bền vững. Tỉnh tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng cho các xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn về giống, vốn để phát triển sản xuất theo Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo. Từ đầu năm đến nay, có 48.800 lượt hộ nghèo, cận nghèo được vay vốn xóa đói giảm nghèo, với tổng kinh phí 3.030 triệu đồng. Các chế độ trợ cấp, trợ giúp cho đối tượng bảo trợ xã hội được quan tâm thường xuyên. Công tác đền ơn đáp nghĩa luôn được các cấp ủy chính quyền địa phương quan tâm thực hiện tốt.

9. Hoạt động y tế

Tình hình dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn tỉnh cơ bản đã được kiểm soát chặt chẽ. Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh ghi nhận 269 trường hợp mắc sốt xuất huyết, các ca mắc rải rác trong tháng 5, tháng 10 và có xu hướng gia tăng; đã xuất hiện 11 ổ dịch quy mô nhỏ từ 2-4 ca tại các huyện như Yên Dũng, Lục Ngạn, Thành phố Bắc Giang, Việt Yên và Yên Thế, chủ yếu là các ca bệnh xâm nhập. Về công tác tiêm vắc xin phòng Covid-19, đến nay, tỉnh đã hoàn thành mục tiêu tiêm chủng được giao. Các bệnh truyền nhiễm được phát hiện rải rác trong cộng đồng, trong tháng ghi nhận 1.297 lượt mắc bệnh của 09 bệnh truyền nhiễm trong số 27 bệnh được giám sát (tăng 70 ca so với tháng trước).

Công tác khám chữa bệnh, trong tháng, số lượt khám chữa bệnh là 164.940 lượt (tuyến tỉnh: 59.958, tuyến huyện: 104.982), bằng 169% so với cùng kỳ năm 2021; bệnh nhân nội trú: 24.547 người (tuyến tỉnh: 12.108, tuyến huyện: 12.439), bằng 150% so với cùng kỳ; bệnh nhân điều trị ngoại trú: 47.053 người (tuyến tỉnh: 6.363, tuyến huyện: 40.690), bằng 131% so với cùng kỳ; công suất sử dụng giường bệnh là 119,1%, bằng 176% so với cùng kỳ.

10. Công tác đảm bảo an ninh chính trị và trật tự xã hội

Hoạt động bảo đảm trật tự an toàn giao thông

Hoạt động tuần tra, kiểm soát và xử lý vi phạm về trật tự an toàn giao thông tiếp tục được duy trì và tăng cường thực hiện bởi lực lượng cảnh sát giao thông và công an các cấp. Đặc biệt chú trọng xử lý vi phạm về nồng độ cồn, ma túy, tốc độ khi điều khiển phương tiện và vi phạm quy định về đội mũ bảo hiểm khi ngồi trên mô tô, xe máy, xe đạp điện... Tập trung kiểm tra chất lượng an toàn kỹ thuật của xe ô tô chở khách và việc thực hiện quy định lắp đặt camera giám sát hành trình, nhất là các xe ô tô chở khách liên tỉnh, xe đưa đón công nhân.

Về tai nạn giao thông

Tính từ 15/11/2022 đến ngày 14/12/2022, toàn tỉnh xảy ra 43 vụ tai nạn giao thông, làm chết 19 người, làm bị thương 26 người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn tăng 9 vụ; tăng 7 người chết; số người bị thương giảm 9 người. Tính chung 12 tháng, toàn tỉnh xảy ra 267 vụ tai nạn giao thông, làm chết 131 người, làm bị thương 186 người; so với cùng kỳ năm 2021: giảm 48 vụ, giảm 4 người chết và giảm 75 người bị thương.

Về an ninh chính trị

Nhìn chung tình hình an ninh chính trị trong tháng 12 và cả năm cơ bản ổn định, không xảy ra những vấn đề nghiêm trọng. Trong tháng, tỉnh đã xử lý 34 vụ vi phạm về môi trường với tổng số tiền xử phạt là 499 triệu đồng, tổng số vụ vi phạm đã xử lý trong năm là 196/201 vụ và xử phạt 3.365 triệu đồng./.

                                        (Huyền Giang)

Trung bình (0 Bình chọn)